Xã hội và văn hóa Phá_thai

Tranh cãi về phá thai

Các nhà hoạt động Ủng hộ lựa chọn gần Đài tưởng niệm Washington tại cuộc Tuần hành vì Cuộc sống Phụ nữ năm 2004. (trái) Các nhà hoạt động Ủng hộ sự sống gần Đài tưởng niệm Washington trong cuộc Tuần hành vì Sự sống tại Washington, DC năm 2009. (phải)
Bài chi tiết: Tranh cãi về phá thai

Trong lịch sử phá thai, phá thai có chủ đích đã là một chủ đề gây tranh luận, cãi có và tuyên truyền lớn. Một quan điểm cá nhân trong các vấn đề chủng tộc, đạo đức, triết học, sinh học và pháp lý phức tạp thường liên quan tới hệ thống giá trị của người đó. Các quan điểm chính là một bên ủng hộ tiếp cận dịch vụ phá thai và bên kia chống lại việc đó. Các ý kiến về phá thai có thể miêu tả như là một sự tổng hợp các đức tin về tính đạo đức, tính trách nhiệm, phạm vi chủng tộc và phạm vi quyền lực của chính phủ trong chính sách công. Đạo đức tôn giáocũng có ảnh hưởng trên cả ý kiến cá nhân và cuộc tranh luận lớn h ơn về phá thai (xem tôn giáo và phá thai).

Các cuộc tranh luận về phá thai, đặc biệt gắn liền với các điều luật về phá thai, thường là điểm mấu chốt của các nhóm ủng hộ một trong hai quan điểm đó. Tại Hoa Kỳ, những người ủng hộ một sự hạn chế pháp lý lớn hơn, hay thậm chí là cấm hoàn toàn việc phá thai, thường coi mình là những người Ủng hộ sự Sống trong khi những người phản đối việc hạn chế pháp lý với việc phá thai miêu tả họ là những người Ủng hộ Lựa chọn. Nói chung, bên phản đối cho rằng phôi thai là một con người với một quyền được sống thực hiện phá thai cũng như hành động giết người. Bên ủng hộ cho rằng phụ nữ có một số quyền sinh sản, đặc biệt là quyền lựa chọn có hay không hoàn thành một thai kỳ.

Cả trong tranh luận công khai và không công khai, các lý lẽ được đưa ra ủng hộ hay phản đối việc thực hiện phá thai tập trung vào việc có cho phép, về mặt đạo đức, thực hiện một ca phá thai có chủ đích không, hay sự biện minh cho các luật pháp cho phép hay hạn chế việc phá thai.

Tranh luận cũng tập trung vào việc liệu phụ nữ có thai có phải thông báo và/hay có sự ưng thuận của những người khác trong những trường hợp riêng biệt: với một người vị thành niên, cha mẹ cô bé; với một người vợ đã lấy chồng hợp pháp hay theo thế tục, người chồng; hay, với bất kỳ trường hợp nào, người cha sinh học. Trong một cuộc điều tra năm 2003 của Gallup ở Hoa Kỳ, 79% nam giới và 67% phụ nữ tham gia ủng hộ việc luật hóa việc thông báo cho người bạn đời; tổng số ủng hộ là 72% và 26% phản đối.[98]

Luật phá thai

Bài chi tiết: Luật phá thai

Bản mẫu:AbortionLawsMap

Những luật thế tục sớm nhất về phá thai phản ánh một mối lo ngại về tầng lớp và sự duy trì tính tinh khiết của đẳng cấp và sự gìn giữ đặc quyền của nam giới. Phá thai như vậy không bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, nhưng những người vợ thực hiện phá thai mà không có sự cho phép của người chồng bị trừng trị nghiêm khắc, và những người nô lệ thực hiện phá thai cho các phụ nữ tầng lớp trên cũng bị trừng phạt như vậy. Nói chung, việc phá thai trước giai đoạn phôi thai phát triển nhanh bị coi là tội nhỏ.

Các triết lý mới của thời Axial Age (năm 800 đến 200 TCN), bắt đầu thảo luận bản chất và giá trị của sự sống con người theo những thuật ngữ trừu tượng, ít có dấu ấn trên những luật lệ sẵn có về phá thai. Thậm chí các tòa án giáo sĩ thời Trung Cổ áp dụng việc sám hối chứ không sử dụng hình phạt về thân thể cho việc phá thai, và giữ lại sự phân biệt trước và sau thời kỳ phôi thai phát triển nhanh của các triết lý cổ đại.

Với ngoại lệ duy nhất là các bình luận của Bracton,[99] về luật thế tục Anh tạo nên quy tắc sinh sống, loại trừ thuốc phá thai khỏi luật giết người, sử dụng ngôn ngữ có từ thời Leges Henrici Primi.[100]

Ở thế kỷ 18, có tuyên bố rằng hiểu biết của khoa học về sự phát triển của con người bắt đầu từ khi thụ tinh bào chữa cho các điều luật chặt chẽ hơn về phá thai.[101] Đây là một phần của cuộc đấu tranh lớn hơn về nghề y để phân biệt y khoa dựa trên khoa học với y khoa "truyền thống", gồm cả thuật đỡ đẻ và dược thảo.[102]Cả những ca phá thai trước và sau thời kì phôi thai phát triển nhanh đều bị coi là tội phạm theo Lord Ellenborough's Act năm 1803.[103] Năm 1861, Nghị viện Vương quốc Anh thông qua Offences against the Person Act 1861, tiếp tục đặt ra ngoài vòng pháp luật hành động phá thai và đây được dùng làm hình mẫu cho những điều luật cấm tương tự ở một số nước khác.[104]

Liên bang Xô viết, với điều luật năm 1920, và Iceland, với điều luật năm 1935, là hai quốc gia đầu tiên trông số những nước nói chung cho phép phá thai. Nửa sau thế kỷ 20 chứng kiến việc tự do hóa các điều luật phá thai tại các quốc gia khác. Luật Phá thai 1967 cho phép phá thai vì một số lý do hạn chế tại Vương quốc Anh (ngoại trừ Bắc Ireland). Trong vụ kiện năm 1973, Roe v. Wade, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ hủy bỏ các điều luật bang về cấm phá thai, phán quyết rằng những điều luật đó vi phạm việc áp dụng quyền riêng tư trong Hiến pháp Mỹ. Tương tự, Tòa án Tối cao Canada, trong vụ việc R. v. Morgentaler, loại bỏ luật hình sự của mình về phá thai năm 1988, sau khi phán quyết rằng những sự hạn chế đó vi phạm an ninh cá nhân được đảm bảo cho phụ nữ theo Hiến chương về Quyền và Tự do Canada.[105] Sau đó Canada đã loại bỏ các quy định của các tỉnh về phá thai trong vụ R. v. Morgentaler (1993). Trái lại, phá thai tại Cộng hòa Ireland bị ảnh hưởng bởi sự bổ sung một bổ sung vào Hiến pháp năm 1983 theo một cuộc trưng cầu dân ý, công nhận "quyền sống của thai nhi chưa ra đời".

Luật pháp về việc phá thai hiện tại khá khác biệt. Tôn giáo, đạo đức, và các tình cảm văn hóa tiếp tục ảnh hưởng tới các điều luật về phá thai trên khắp thế giới. Quyền sống, quyền tự do, quyền an ninh cá nhân, và quyền sức khỏe sinh sản là các vấn đề chính của nhân quyền và thỉnh thoảng được dùng như những lý lẽ bào chữa cho sự tồn tại hay không tồn tại của các điều luật kiểm soát việc phá thai. Nhiều quốc gia tại đó việc phá thai là hợp pháp yêu cầu đạt một số tiêu chí để có thể thực hiện một ca phá thai, thường, nhưng không phải luôn luôn, sử dụng một hệ thống dựa trên ba tháng thai kỳ để kiểm soát vấn đề pháp lý:

  • Tại Hoa Kỳ, một số bang áp dụng thời gian chờ 24 tiếng trước khi thực hiện thủ thuật, buộc phải cung cấp trước thông tin về sự phát triển phôi thai, hay yêu cầu rằng phụ huynh phải được liên hệ nếu người con vị thành niên của họ yêu cầu thực hiện phá thai.[106]
  • Tại Vương quốc Anh, cũng như ở một số quốc gia khác, trước tiên hai bác sĩ phải xác nhận rằng việc phá thai là cần thiết về mặt y tế hay xã hội trước khi thủ thuật được thực hiện.[cần dẫn nguồn]

Ở các quốc gia khác, nơi mà việc phá thai thường là bất hợp pháp, một người sẽ được thực hiện phá thai trong trường hợp bị cưỡng hiếp, loạn luân, hay quá trình thai nghén gây nguy hiểm cho sức khỏe hay tính mạng của người mẹ.

Tại những nơi việc phá thai là bất hợp pháp hay nơi có quan điểm xã hội nặng nề, phụ nữ có thai có thể tham gia vào các tour du lịch y tế và đi tới những nước nơi họ có thể chấm dứt thai kỳ. Phụ nữ không có phương tiện để đi du lịch có thể nhờ tới những người thực hiện phá thai bất hợp pháp hay phải tự thực hiện việc này.[112]

Tại Hoa Kỳ, khoảng 8% các ca phá thai được thực hiện cho những phụ nữ tới từ quốc gia khác.[113] Tuy nhiên, điều này một phần có nguyên nhân từ những giới hạn khác nhau về việc phá thai liên quan tới tuổi thai hay sự khan hiếm bác sĩ được đào tạo và ý muốn thực hiện phá thai muộn.[114] Hàng năm, hàng nghìn phụ nữ từ Bắc Ireland, Cộng hòa Ireland, Ba Lan và các quốc gia khác nơi việc phá thai có chủ đích là bất hợp pháp đi du lịch tới Anh hay các quốc gia khác ít có sự hạn chế pháp luật hơn, để thực hiện phá thai.[115][116]

Tại Hoa Kỳ và một số địa phương ở Canada, sẽ là bất hợp pháp nếu ngăn cản quyền tiếp cận địa điểm y tế nơi có thực hiện phá thai. "Các vùng đệm," quản lý những người phản đối tiếp cận với cơ sở y tế hay người bệnh, có thể được đặt ra.

Việc bắt buộc thông báo cho bạn đời đã bị Tòa án Tối cao Hoa Kỳ phán quyết là vi hiến trong vụ Planned Parenthood v. Casey.[117][118]

Các vấn đề khác trong luật pháp về phá thai có thể bao gồm yêu cầu trẻ vị thành niên có sự đồng ý của một hay cả cha lẫn mẹ về việc phá thai, yêu cầu rằng một phụ nữ phải có sự đồng ý của chồng với việc phá thai và câu hỏi về việc người cha của phôi thai có thể ngăn cản một ca phá thai, yêu cầu rằng cơ sở cung cấp dịch vụ phá thai thông báo cho người bệnh về những nguy cơ có thể có của thủ thuật và các luật lệ về sinh đẻ trái luật.

Lựa chọn giới tính

Siêu âmchọc ối cho phép cha mẹ xác định giới tính thai nhi trước khi sinh. Sự phát triển của kỹ thuật này đã dẫn tới phá thai lựa chọn giới tính, hay việc loại bỏ thai nhi dựa trên giới tính. Thông thường nhất việc loại bỏ thai nhi thường bởi đó là một thai nhi gái.

Có quan điểm cho rằng phá thai dựa trên giới tính một phần dẫn tới tình trạng chênh lệch khá lớn về tỷ lệ sinh trẻ trai và trẻ gái ở một số nơi. Nhiều vùng ở châu Á thường thích con trai hơn con gái, và đã có báo cáo về việc sử dụng biện pháp phá thai để hạn chế sinh con gái ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Ấn Độ.[119]

Ở Ấn Độ, vai trò kinh tế của đàn ông, các chi phí liên quan tới của hồi môn, và một truyền thống thường gặp ở Ấn Độ cho rằng các nghi lễ trong đám tang phải được thực hiện bởi một người nam giới họ hàng đã dẫn tới sự ưa chuộng văn hóa với con trai.[120] Sự phổ biến của các biện pháp chẩn đoán, trong thập niên 1970 và '80, đã dẫn tới những dịch vụ quảng cáo, "Đầu tư 500 rupee [cho một chẩn đoán giới tính] bây giờ, tiết kiệm 50,000 rupee [cho một khoản hồi môn] về sau."[121] Năm 1991, tỷ lệ giới tính nam/nữ ở Ấn Độ từ mức sinh học thông thường 105 trên 100, lên tới mức trung bình 108 trên 100.[122] Các nhà nghiên cứu đã cho rằng trong giai đoạn 1985 và 2005 tới 10 triệu thai nhi nữ đã bị phá thai có lựa chọn.[123] Chính phủ Ấn Độ đã thông qua lệnh cấm chính thức với việc soi giới tính trước khi sinh năm 1994 và cấm phá thai do lựa chọn giới tính năm 2002,[124] dù trước đó họ đã loại ra ngoài vòng pháp luật việc phá thai ngoại trừ vì lý do an toàn cho bà mẹ.[124]

Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cũng có sự ưa thích con trai hơn con gái từ trong lịch sử. Việc áp dụng chính sách một con năm 1979, trước những lo ngại về dân số, đã dẫn tới sự gia tăng cách biệt trong tỷ lệ trẻ sơ sinh theo giới tính khi các bậc cha mẹ tìm cách lách luật thông qua việc phá thai do lựa chọn giới tính hay bỏ rơi con gái.[125] Phá thai do lựa chọn giới tính có thể có ảnh hưởng dẫn tới sự gia tăng tỷ lệ trẻ nam/nữ quốc gia lên đến mức cao 117:100 theo báo cáo năm 2002. Khuynh hướng này thường thấy nhất tại các khu vực nông thôn: cao tới 130:100 tại Quảng Đông và 135:100 tại Hải Nam.[126] Một lệnh cấm phá thai do lựa chọn giới tính đã được ban hành năm 2003.[127]

Bạo lực chống phá thai

Các bác sĩ và cơ sở y tế cung cấp dịch vụ phá thai đã trở thành đối tượng của nhiều hình thức bạo lực, gồm cả giết hại, tìm cách giết hại, bắt cóc, săn đuổi, tấn công, đốt phá, và đánh bom. Bạo lực chống phá thai đã bị các nguồn thông tin của chính phủ và giới học giả coi là một dạng của chủ nghĩa khủng bố.[128][129] Chỉ một nhóm nhỏ những người phản đối phá thai thực hiện hành vi bạo lực, thường gọi những hành động của mình là giết người hợp pháp hay bảo vệ những người khác, thực hiện hành động để bảo vệ mạng sống của các thai nhi.

Tại Hoa Kỳ, bốn người thực hiện phá thai – Bác sĩ David Gunn, John Britton, Barnett Slepian, và George Tiller—đã bị ám sát. Những âm mưu ám sát cũng đã diễn ra tại Hoa Kỳ và Canada, và những người khác tại cơ sở y tế, kể cả lễ tân và nhân viên an ninh, đã bị giết tại Hoa Kỳ và Australia. Hàng trăm vụ đánh bom, đốt phá, tấn công bằng axít, xâm nhập, vụ việc phá hoại chống những cơ sở cung cấp dịch vụ phá thai đã diễn ra.[130][131] Những nhân vật bạo lực chống phá thai đáng chú ý gồm Eric Robert Rudolph, Scott Roeder, Shelley Shannon, và Paul Jennings Hill, người đầu tiên bị hành quyết ở Hoa Kỳ vì giết một bác sĩ phá thai.[132]

Nghệ thuật, phim và văn học

Nghệ thuật là phương tiện nhân đạo hóa vấn đề phá thai và thể hiện vô số quyết định và những hậu quả từ đó. Một trong những thể hiện sớm nhất về phá thai là trong một bức phù điêu đắp nổi thấp tại Angkor Wat (khoảng năm 1150). Nhà hoạt động ủng hộ sự sống Børre Knudsen có liên quan tới một tác phẩm nghệ thuật mất trộm năm 1994 như một phần của đợt vận động ủng hộ sự sống tại Na Uy nhân sự kiện Olympic mùa Đông năm 1994.[133] Một gallery Thụy Sĩ đã gỡ bỏ một tác phẩm trong tuyển tập Trung Quốc năm 2005, tác phẩm có cái đầu của một thai nhi gắn trên thân một con chim.[134] Năm 2008, một sinh viên trường Yale đã đề xuất sử dụng những phần bị bỏ đi và chính sự phá thai có chủ đích như một dự án nghệ thuật trình diễn.[135]

The Cider House Rules (tác phẩm 1985, phim 1999) kể câu chuyện của Bác sĩ Larch một đạo diễn mồ côi, là một người thực hiện phá thai bất đắc dĩ sau khi xem những hậu quả của back-alley abortions, và trợ lý y tế mồ côi của ông Homer, một người phản đối phá thai.[136] Các tiểu thuyết nữ quyền như Braided Lives (1997) của Marge Piercy nhấn mạnh cuộc đấu tranh phụ nữ phải đối mặt với phá thai không an toàn trong nhiều hoàn cảnh trước khi nó được hợp pháp hóa.[137] Bác sĩ Susan Wicklund đã viết cuốn This Common Secret (2007) về cách làm thế nào một chấn thương tâm lý cá nhân bà có khiến bà quyết tâm chăm sóc những phụ nữ những người đã quyết định thực hiện phá thai. Khi Wicklund đi khắp phương Tây để thực hiện dịch vụ phá thai tại các bệnh viện ở xa xôi, bà đã kể câu chuyện về những phụ nữ đã được bà chăm sóc và những hy sinh mà bà và những người thân phải gánh chịu.[138] Năm 2009, Irene Vilar tiết lộ sự lạm dụng và thói nghiện phá thai trong quá khứ của mình trong cuốn Impossible Motherhood, bà đã thực hiện 15 lần phá thai trong 17 năm. Theo Vilar nó là kết quả của một chu trình tâm tâm lý đen tối của quyền lực, sự nổi loạn và những mong đợi của xã hội.[139] Trong bài thơ sử thi thần thoại của Annie Finch và trong phần lời vở nhạc kịch opera Among the Goddesses (2010), vụ phá thai của nữ anh hùng là ngữ cảnh tâm hồn của các nữ thần Demeter, Kali, và Inanna.[140]

Nhiều quan điểm và thực tế khác về việc phá thai đã được thể hiện trên phim. Trong Riding in Cars with Boys (2001) một phụ nữ trẻ đã mang thai tới khi sinh nở vì việc phá thai không thể thực hiện, dọn nhà tới ở cùng bạn trai và dính líu tới ma túy, không có tương lai, và tự hỏi mình có yêu con không. Trong khi trong phim Juno (2007) một bé gái 16 tuổi chuẩn bị thực hiện phá thai nhưng đã quyết định tiếp tục thai kỳ và mang cho một cặp vợ chồng giàu có nuôi nó. Các bộ phim khác Dirty Dancing (1987) và If These Walls Could Talk (1996) đề cập tới khả năng, sự sẵn có và những nguy hiểm của việc phá thai không an toàn. Dấu ấn cảm xúc của việc đối mặt với việc mang thai ngoài ý muốn là chủ đề của Things You Can Tell Just By Looking At Her (2000) và Circle of Friends (1995). Khi hôn nhân đang The Godfather Phần II (1974) Kay biết mối quan hệ đã chấm dứt khi bà bí mật phá thai "một đứa con trai".[141] Trong cuộc tranh cãi về phá thai, một sự nghiện ngập vô trách nhiệm được dùng như con tốt trong cuộc cạnh tranh giữa các nhóm ủng hộ lựa chọn và ủng hộ sự sống trong Citizen Ruth (1996).[142]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phá_thai http://www.racgp.org.au/afp/200609/11015 http://www.csis-scrs.gc.ca/en/publications/comment... http://www.china.org.cn/english/2003/Mar/59194.htm http://civilliberty.about.com/od/gendersexuality/t... http://members.aol.com/abtrbng/lea.htm http://www.cbctrust.com/history_law_religion.php http://www.csmonitor.com/2006/0912/p01s04-woam.htm... http://www.diseasesdatabase.com/ddb4153.htm http://www.eturbonews.com/6052/thousands-women-n-i... http://books.google.com/?id=0BY0hx2l5uoC